Trung Quốc là quốc gia mà trong quá trình phát triển kinh tế đã gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng môi trường của cộng đồng. Tuy nhiên, những năm gần đây do áp lực của toàn cầu và của chính công dân nước này, Bắc Kinh đã cam kết giảm lượng khí CO2 khoảng 40-45% vào năm 2020, nhưng cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu khả quan của sự bắt đầu. Theo chính quyền Trung Quốc, rất khó có thể giảm thiểu lượng khí thải này nếu không thực thi việc phân bố hợp lý và áp dụng triệt để nội quy môi trường đối với các nhà máy, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp gây tổn hại đến môi trường, làm gia tăng lượng khí thải CO2.
Trung Quốc bị lên án là quốc gia có lượng phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới và quốc gia này cũng đã chịu nhiều áp lực và buộc phải đưa ra cam kết mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu. Quốc gia này đã được hưởng lợi lớn nhất từ Cơ chế Phát triển Sạch (Clean Development Mechanism) – một chương trình do Liên hiệp quốc hậu thuẫn cho phép các nước công nghiệp đáp ứng mục tiêu giảm CO2 bằng cách mua “Giảm phát thải được chứng nhận – CER” (có thuật ngữ giải thích dưới đây) từ các dự án đưa ra cácbon thấp ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, Liên minh châu Âu – khu vực mua lớn nhất của CERs cho biết họ sẽ không chấp nhận CERs được tạo ra bởi các dự án của Trung Quốc trong giai đoạn đầu tiên của ETS (Emissions Trading Scheme: Chương trình Hoán đổi Khí thải) mặc dù dự án đăng ký sẽ vẫn còn hiệu lực.
Trên thực tế, trong gần 30 năm qua, Trung Quốc không ngừng điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, năng lượng, đào thải năng lực sản xuất lạc hậu, phát triển năng lượng tái sinh, áp dụng chính sách, biện pháp và hành động mạnh mẽ, tích cực ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo thống kê, tiêu hao năng lượng trên một đơn vị GDP của Trung Quốc đã giảm 13% năm 2005, tỉ lệ năng lượng tái sinh trong tổng lượng tiêu dùng năng lượng một lần của Trung Quốc đã từ 7,5% năm 2005 nâng đến 9% năm 2008. Ngoài ra, Trung Quốc hiện nay đã là nước có diện tích rừng nhân tạo lớn nhất trên thế giới. Trung Quốc cũng không dao động quyết tâm ứng phó với biến đổi khí hậu, trong gói kích thích kinh tế 4 nghìn tỉ nhân dân tệ của Trung Quốc, đã có 210 nghìn tỉ nhân dân tệ trực tiếp đầu tư vào xây dựng bảo vệ môi trường và sinh thái.
Nếu Trung Quốc muốn tiếp tục cung cấp CERs cho giai đoạn tiếp theo của ETS bắt đầu vào năm 2013, Bắc Kinh cần phải đàm phán thỏa thuận song phương với châu Âu và do đó cần cam kết mạnh mẽ hơn để làm giảm mức độ của khí nhà kính. Trong những tháng gần đây, các quan chức chính phủ nói rằng Trung Quốc đang xây dựng kế hoạch áp đặt giới hạn đối đa khí thải carbon trong một số tỉnh thí điểm và vài ngành công nghiệp thí điểm. Giới hạn tối đa tiêu thụ năng lượng 4,1 tỷ tấn dự kiến bao gồm trong “Kế hoạch mới 5 năm phát thải C02 thấp”.
Một số thuật ngữ liên quan:
Các khí nhà kính (Green House Gas-GHG) là gì?
Các GHG chính chịu trách nhiệm gây ra biến đổi khí hậu là điôxít cácbon (CO2). Mêtan (CH4), và Nitơ oxit (N2O). Nghị định thư Kyoto cũng nói đến hydrofluorocácbon (HFCs), perfluorocácbon (PFCs), và sunphua hexafluorit (SF6)
Cơ chế phát triển sạch (CDM – Clean Development Mechanism) là gì?
Nghị định thư Kyoto đề ra CDM để các nước công nghiệp hoá có thể tài trợ cho các dự án tránh phát thải ở các nước đang phát triển và nhận được các mức giảm có chứng nhận.
Giảm phát thải được chứng nhận (Certified Emission Reductions-CERs) là gì?
Một đơn vị giảm GHG sinh ra bởi một dự án CDM và được một thực thể tác nghiệp chứng nhận. Một chứng nhận CER bằng một tấn đioxít cácbon tương đương, tính toán bằng cách sử dụng tiềm năng ấm nóng lên toàn cầu.
Các đơn vị giảm phát thải (Emission Reduction Units-ERUs) là gì?
Môt đơn vị giảm GHG sinh ra bởi một dự án JI. Một ERU bằng một tấn đioxít cácbon tương đương, tính toán bằng cách sử dụng tiềm năng ấm nóng lên toàn cầu.
Theo Báo xây dựng