Hệ thống dịch vụ công cộng (DVCC) đô thị và nông thôn luôn là thước đo chất lượng sống của các thời kỳ văn minh. Những quan điểm tiến bộ nhất hiện nay đều coi đây là thành phần cơ bản của cấu trúc kinh tế – xã hội đô thị, vận hành theo kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, càng quan trọng hơn bởi đô thị hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa, rất nhiều DVCC vừa mang thuộc tính thị trường lại vừa mang thuộc tính phục vụ. Đô thị Việt Nam dù mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng chúng ta đã nhìn thấy sự thất bại của hệ thống loại hình tầng bậc và đơn chức năng trong các công trình dịch vụ công cộng. Mặt khác, việc chấp nhận cơ chế thị trường cũng dẫn tới sự phá sản tất yếu của Hệ thống dịch vụ công cộng theo tầng bậc đang vẫn được áp dụng trong các nguyên tắc của thiết kế quy hoạch hiện nay ở Việt Nam. Chính vì vậy, quá trình quy hoạch xây dựng đô thị và chỉnh trang đô thị rất cần có sự nhìn nhận khách quan về thực tiễn và các xu hướng phát triển hệ thống DVCC cũng như những khái niệm và cách tiếp cận mới nhằm xây dựng các Trung tâm đô thị hấp dẫn, tiện ích gắn với chất lượng đô thị và chất lượng sống của dân cư.
Dịch vụ công cộng – Thước đo chất lượng sống
Trong thời kỳ đang hiện đại hoá này, cấu trúc hệ thống DVCC đô thị đã được phân thành hai nhóm chính, nằm trong cấu trúc của hai hệ thống: (1) Hệ thống dịch vụ sản xuất công nghiệp – dịch vụ và (2) Hệ thống dịch vụ công cộng xã hội (Đô thị và các vùng ảnh hưởng) để tổ chức không gian DVCC thích ứng với chúng.
Đối với nhóm (1) được hiểu là cấu trúc hệ thống DV cho toàn bộ các vùng công nghiệp và môi trường dịch vụ cho quá trình sản xuất. Cấu trúc DV (1) bao trùm luôn cả tập hợp các công trình sản xuất, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và cấp thoát nước cũng như hệ thống kỹ thuật môi trường.
Đối với nhóm (2) là nhóm cấu trúc – dịch vụ đời sống công cộng đô thị bao gồm toàn bộ các vùng dân cư đô thị theo cấp độ địa phương, quốc gia. Chúng được xác định theo mạng lưới của Hệ thống không gian các Trung tâm DVCC (Bao gồm 3 loại: Không gian kinh tế dịch vụ; Không gian văn hoá và giao tiếp cộng đồng đô thị; Không gian dân sự đô thị – Là không gian của kinh tế tri thức), và dưới nó là các tổ hợp kiến trúc DVCC đa năng hoá để đáp ứng mọi nhu cầu đời sống dân cư. Nhóm (2) bao trùm toàn bộ tổ chức hoạt động sống dân cư như giao thông, thông tin liên lạc, tổ chức phân phối sản phẩm thiết yếu, phát triển các tiện ích tác động trực tiếp đến người dân và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất DVCC. Đây cũng là nền tảng để các đô thị hiện đại trở nên tiện ích hơn, tăng chất lượng sống và làm nên tính đặc trưng. Đô thị đang trở thành xu hướng lớn nhất để lựa chọn cư trú lâu dài của các cư dân châu Á, đang chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp – dịch vụ như Việt Nam.
Không gian công cộng khu ĐTM Phú Mỹ Hưng, TpHCM
Các nước phát triển như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Singapore đều đã xây dựng hệ thống trung tâm DVCC đa dạng và hoàn thiện, là bộ mặt của đô thị hiện đại. Hệ thống này còn góp phần thiết lập trật tự đô thị – vốn là kiểu cư trú ở mật độ cao, đặc biệt giảm tắc nghẽn giao thông trên cơ sở phân bố hợp lý các điểm DVCC. Do vậy ổn định được hệ thống DVCC đô thị là ổn định dân cư tại chỗ và tạo được quan hệ hữu cơ giữa sản xuất – tiêu dùng và cung – cầu của thị trường, mà giữa chúng là sự vận hành khéo léo, hài hoà của chính sách, đầu tư và quản lý từ nhiều cấp độ nhằm phát triển không gian DVCC luôn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống hiện đại.
Theo lý thuyết, các đô thị sau hiện đại chia hệ thống DVCC đô thị cụ thể hơn với các cấu trúc DVCC đơn vị cơ bản, được tính toán theo: Quỹ thời gian – Làm việc và nghỉ ngơi, đi lại; Nhu cầu sống; Nhu cầu sinh hóa. Từ các cấu trúc đơn vị cơ bản đó có thể tiến hành quy hoạch và tổ chức mạng lưới các Trung tâm DVCC đô thị và vùng đô thị một các khoa học.
Có 3 cấu trúc DVCC đơn vị cơ bản:
Nhóm A – Bao gồm các DVCC đời sống thiết yếu mà nguyên tắc cơ bản là: giảm thiểu thời gian đi lại cho hoạt động đời sống hàng ngày của dân cư như: Thực phẩm xã hội, DV đời sống, Buôn bán nhỏ, DV tiện ích công cộng, Giáo dục phổ thông (trường cấp I, II, nhà trẻ, mẫu giáo), DV hành chính phường, tài chính, tín dụng… trong bán kính phục vụ 400m và 5 – 10 phút đi bộ.
Nhóm B – Bao gồm các DVCC mà nguyên tắc cơ bản là “Thoả mãn tối đa nhu cầu tinh thần của người tiêu dùng trong thời gian tự do” theo chu kỳ ngày hoặc tuần như: DV Văn hoá và nghệ thuật, DV Thể thao, DV Giải trí du lịch, Giao tiếp cộng đồng…
Nhóm C – Bao gồm các DVCC mà nguyên tắc cơ bản là “Thực hiện sự cân bằng xã hội hoặc cân bằng sinh học, hồi phục thể chất cho con người ” như: DV sức khoẻ; Các nuôi dưỡng xã hội; Giáo dục cao đẳng, đại học; Thể thao, Giải trí và du lịch; các hoạt động xã hội dân sự…
Chất lượng sống tại các đô thị Việt Nam đang ở đâu?
Ở Việt Nam, hệ thống DVCC của những đô thị thời Pháp thuộc đã kế thừa các mô hình dịch vụ sinh sống nhỏ kiểu “phố hàng” của đô thị truyền thống và xây dựng được các Trung tâm công cộng mới theo kiểu đô thị phương Tây khá phù hợp với quy mô dân số còn khiêm tốn lúc bấy giờ. Ví dụ như Hà Nội đã có các Trung tâm Văn hoá, Giáo dục ven bờ sông Hồng, Quảng trường Nhà hát lớn, Trung tâm Thương mại hồ Hoàn Kiếm, Trung tâm Chính trị – Hành pháp Ba Đình ở Hà Nội. Các trung tâm mới này vẫn song song tồn tại với hệ thống dịch vụ đời sống kiểu “phố hàng” của dân cư bản địa tại khu 36 phố phường làm nên đặc trưng rất riêng của thành phố này. Các Trung tâm công cộng kiểu này cũng được phát triển ở Quận 1, Quận 3 tại TP.HCM và tương tự ở Hải Phòng, Huế, Đà Lạt, Sa Pa… với các quy mô khác nhau. Hiện nay, những Trung tâm đô thị thời Pháp thuộc vẫn đóng vai trò chủ chốt trong đời sống công cộng như hành chính – hành pháp, thương mại, văn hoá, giáo dục… mà các khu đô thị mới hiện nay chưa theo kịp. Chúng đã tạo thành các khu phố lịch sử – di sản rất có giá trị của Việt Nam. Nhưng chúng cũng đang kêu cứu vì quá tải và có nguy cơ bị phá vỡ cấu trúc vốn có, do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc lạm dụng quá mức công suất DVCC của chúng.
Sơ đồ cấu trúc Hệ thống phục vụ
Hai dòng phục vụ giữa Đô thị mang tính hiện đại với Đô thị truyền thống thời Pháp thuộc bổ sung tương hỗ cho nhau hình thành hệ thống DVCC cho hơn hai vạn dân lúc đó và sau này là gần 1 triệu dân cư nội đô Hà Nội (trong thời bao cấp) một cách tiện lợi và hoàn hảo nhất. Hệ thống này đến nay đã quá tải do dân số nội thành lên hơn 2 triệu và còn sức ép của các văn phòng cao tầng đang xây tại trung tâm thành phố đang ngày một gia tăng. Hệ thống DVCC Hà Nội bị phá vỡ cấu trúc cũ một cách nặng nề, tình trạng hàng rong lấn chiếm lòng đường, vỉa hè là minh chứng cho điều này.
Cũng trong thời kì Pháp thuộc, hậu quả lớn nhất của chiến tranh ngăn cản đô thị hoá là tình trạng kết cấu hạ tầng vừa yếu, vừa thiếu nghiêm trọng không thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhất là ở miền Bắc. Ở miền Nam, kiến trúc công cộng còn lại có khá hơn nhưng vì được xây dựng theo chủ trương nhất thời, nay đã quá niên hạn sử dụng, nên hầu hết phải chỉnh trang, cải tạo xây dựng lại hàng loạt.
Cơ chế bao cấp không khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng đô thị, ngược lại, gây tư tưởng ỷ lại, chờ đợi và triệt tiêu mất tính năng động sáng tạo vốn có trong nhân dân. Nhà ở, hàng hoá, kết cấu hạ tầng triền miên căng thẳng, việc làm triền miên thiếu, môi trường đô thị ngày càng xuống cấp.
Hầu hết các công trình DVCC xây dựng ở thời kì này không để lại các giá trị lớn về sử dụng, thậm chí còn không bằng thời kì Pháp thuộc.
Vấn đề nghiên cứu tổ chức không gian DVCC đô thị đang trở nên cấp bách để góp phần hoạch định đô thị đúng nghĩa ở Việt Nam, thúc đẩy kinh tế đô thị và các dòng hoạt động sản xuất – tiêu dùng, hoạt động chính trị – xã hội, hoạt động đời sống, văn hoá, tinh thần của dân cư trong thời kỳ hiện đại hoá đất nước. Các nghiên cứu như vậy cần có tiếp cận liên ngành và đồng bộ từ quy hoạch, tổ chức không gian, đầu tư và quản lý DVCC đô thị trong tương quan vùng đô thị và vùng kinh tế trọng điểm, phù hợp với tự nhiên, xã hội và lối sống Việt rất đặc trưng của cư dân.
Việc đầu tư các công trình DVCC hiện nay rất nan giải, tuy có quỹ đất trong quy hoạch nhưng không có nhà đầu tư quan tâm. Chính sách đầu tư, nguồn vốn, nhân lực, công nghệ… cho loại hình này cần theo xu hướng xã hội hoá rộng rãi và có sự hỗ trợ định hướng của nhà nước. Trong thời gian trước mắt bối cảnh bắt đầu đô thị hoá rộng khắp ở Việt Nam hiện nay, đầu tư các công trình DVCC đô thị cần chia làm 2 nhóm: Nhóm A – phục vụ đời sống thiết yếu cần trở thành chính sách bắt buộc các nhà đầu tư đô thị phải xây dựng vì dân để họ an cư tại chỗ. Dân mua nhà để ở phải có đủ dịch vụ thiết yếu. Nhóm B và C nhà nước có chính sách ưu đãi hỗ trợ ban đầu theo hướng xã hội hoá để khuyến khích đầu tư từ quy hoạch và xây dựng đô thị nhằm thoả mãn tối thiểu DVCC cho dân cư.
Về quản lý, khai thác vận hành các công trình DVCC đô thị cũng nên theo phương thức xã hội hoá. Bởi gốc của quản lý dịch vụ là tạo điều kiện tối đa cho cung gặp cầu, theo quy luật thị trường nên việc xã hội hoá quản lý hệ thống này là bước đi tất yếu.
Trên thế giới, việc xây dựng mạng lưới DVCC đô thị là lý thuyết thiết kế quy hoạch, kiến trúc cơ bản của mọi mô hình đô thị: Từ mô hình đô thị tiền hiện đại thế kỷ 19, đô thị hiện đại thế kỷ 20 và các đô thị cực lớn, vùng đô thị thế kỷ 21. Mạng lưới DVCC luôn song hành cùng các khu dân cư, bao gồm Hệ thống các trung tâm phục vụ công cộng theo quy mô: vùng đô thị, thành phố, quận, đến khu nhà ở, nhóm nhà ở và hỗn hợp (cực lớn, lớn, trung bình, nhỏ, rất nhỏ tuỳ theo cấp phục vụ và độ lớn dân cư). Các công trình DVCC được tổ hợp lại thành các cấu trúc đa chức năng, linh hoạt trong tổ chức không gian để dễ dàng thay đổi hình thức và công nghệ, trang thiết bị DV theo nhu cầu dân cư và kinh tế thị trường.
Cho đến nay, chưa có giải pháp nào khả dĩ nhằm ổn định mạng lưới DVCC đô thị cũ thì đã phải đương đầu với hiện tượng xây dựng các khu đô thị mới kiểu “đô thị – phòng ngủ” khắp các nơi có quỹ đất nông nghiệp. Hầu hết các khu đô thị mới đưa vào sử dụng chưa xây dựng được đầy đủ các công trình DVCC đời sống tối thiểu như: Tạo việc làm tại chỗ, chợ, trường học, hành chính, bệnh viện… đã làm cho hoạt động của đô thị thêm bế tắc. Khó khăn hơn nữa là phải đối mặt với việc mở rộng đô thị lên gấp nhiều lần (như Hà Nội với vùng Thủ đô mở rộng và TP HCM với kiểu liên kết vùng đô thị của 8 tỉnh quanh nó), càng làm cho bài toán thiết lập mạng lưới DVCC thiết yếu trong tất cả các khu vực: trung tâm cũ, khu đô thị mới, vùng ven và vùng mở rộng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa sống còn cho tương lai đô thị Việt Nam.
Tổ chức và các giải pháp phát triển không gian dịch vụ công cộng tại các đô thị Việt Nam trong tương quan vùng đô thị vì thế mà trở nên đặc biệt cấp bách trong bối cảnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, mà hệ quả trực tiếp là sự chuyển đổi toàn diện về lối sống và nơi cư trú của đại bộ phận dân cư sang đô thị. DVCC đô thị trong tương quan vùng đô thị và vùng kinh tế trọng điểm – là phát triển mới của thực tiễn, đi trước lý luận đô thị ở Việt Nam hiện nay đang rất cần các nghiên cứu khoa học nghiêm túc, dựa trên phương pháp tiếp cận tổng hợp và liên ngành về tổ chức DVCC đô thị như: quy hoạch, tổ chức không gian, đầu tư, quản lý và chính sách xã hội hoá… nhằm định hướng phát triển đô thị Việt Nam trở thành môi trường cư trú chủ đạo trong thời hiện đại hoá gắn với phát triển bền vững.
Chính vì vậy, các mục tiêu đặt ra cho bài toán phát triển các đô thị sống tốt chính là hướng quy hoạch và xây dựng đô thị ở Việt Nam gắn với con người, vì con người, nhằm thiết lập mạng lưới DVCC hợp lý vừa sử dụng được các thành tựu tiên tiến nhất của thế giới, đồng thời kế thừa và phát huy các giá trị của truyền thống trong phát triển tương lai.
Xu hướng phát triển tổ hợp DVCC tại Việt Nam
Vấn đề thay thế các công trình công cộng đơn chức năng bằng các tổ hợp dịch vụ công cộng đa chức năng là một hướng đi phù hợp với hình thái dân cư và phương thức sinh sống nhỏ trong đô thị truyền thống phương Đông được nhận định là một xu hướng mới về tổ hợp dịch vụ công cộng phù hợp với sự phát triển của đô thị Việt Nam.
Tập quán quần cư xưa gồm cả phương pháp tư duy của chúng ta có lẽ chưa thuận với yêu cầu xây dựng đô thị hiện đại (chứa các nội dung mới như mật độ tập trung dân số rất cao, sự chuyển đổi lối quần cư dàn trải trên mặt đất lên cao tầng, tổ chức sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ…).
Đô thị hóa tự phát hiện nay cho thấy thói quen ứng xử của con người tiểu nông còn dai dẳng trong lòng cuộc sống đô thị, cũng là cản trở không nhỏ. Đô thị hóa còn sản sinh ra một lượng đáng kể những cư dân “ngủ một đêm thức dậy, thấy làng xóm đã thành đô thị” rất khó thay đổi và hòa nhập ngay với nếp sống đô thị. Vấn đề nhập cư của nông thôn vào đô thị cũng làm nảy sinh những vấn đề cần phải giải quyết mới.
Nếu chúng ta không thiết kế đô thị theo các nguyên tắc của lối sống công nghiệp – mà đặc trưng là quỹ thời gian được phân chia rành mạch và ổn định theo ngày, chu kỳ, thì dân cư của chúng ta không sử dụng được.
Do đó, cần tính đến một tổ chức đô thị thích hợp với dân cư của đô thị truyền thống, có nghĩa là tính đến sự có mặt của phương thức sinh sống nhỏ trong các giai đoạn phát triển của đô thị. Cụ thể, tổ chức hệ thống phục vụ công cộng trong các thành phố của chúng ta cần tính đến nhu cầu được phục vụ một cách linh hoạt của người dân theo cả ba nhóm A, B, C kiểu tổ hợp. Cũng cần tính đến phương thức phục vụ của những người đã quen với dịch vụ nhỏ: các điểm bán quà sáng, hoa quả, chợ tạm, rau cỏ, thực phẩm tươi… trong thành phần dịch vụ và phương tiện của tổ hợp. Tổ hợp dịch vụ công cộng có thể là môi trường cho cả cũ và mới cùng phát triển.
Không gian công cộng khu ĐTM Trung Hòa Nhân Chính, Hà Nội
Chúng ta cần tổ chức Hệ thống phục vụ công cộng thích ứng với phương thức sinh sống nhỏ ở đô thị Việt Nam, đây là những suy nghĩ ban đầu tìm lời giải cho bài toán phát triển đô thị và kiến trúc. Kinh nghiệm của một số thành phố Đông Nam Á như: Singapore, Manila, BangKok, Kuala Lumpua… đã phát triển rất tốt Hệ thống phục vụ dựa trên các tổ hợp dịch vụ hạt nhân trong khu ở, tổ hợp vui chơi giải trí, tổ hợp văn hóa – giải trí, các tổ hợp thể thao, bệnh viện, trường học… thích hợp với các tầng lớp dân cư khác nhau trong đô thị, kể cả những người đã quen sống theo phương thức sinh sống nhỏ.
Trong những năm gần đây do sự đổi mới của chính sách, ở Hà Nội có một số khu đô thị hay một vài công trình lớn được hình thành theo hướng Tổ hợp DVCC: Trung tâm thương mại Vincom, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Kangnam, Plaza Mỹ Đình…) là những ví dụ điển hình cho quá trình trung tâm hoá các Tổ hợp DVCC đa chức năng. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có giải pháp triệt để nhằm ổn định mạng lưới dịch vụ đời sống từ cấp độ vùng đô thị, thành phố, quận huyện, khu ở đến nhóm ở… cũng như xây dựng các tiêu chuẩn xác lập hệ thống công trình dịch vụ đời sống thiết yếu để giảm tải cho các Trung tâm cũ của TP Hà Nội, cân bằng giữa bảo tồn di sản đô thị lịch sử với phát triển mới. Ví dụ như chưa có quy hoạch Trung tâm Hành chính Quốc gia nên bộ nào cũng làm đề án xây dựng trụ sở và đi… xin địa điểm một cách tuỳ tiện gây lãng phí cho sự vận hành sau này. Còn Trung tâm giao tiếp cộng đồng đô thị, các Trung tâm dịch vụ công nghệ, Trung tâm kinh tế tri thức… sẽ ra đời bằng cách nào, và ở đâu trong các quy hoạch phân khu, ai đầu tư và quản lý vận hành? đều là những câu hỏi có tầm chiến lược trong phát triển đô thị.
Công việc này cũng khó khăn khi phải đối mặt với việc mở rộng thành phố lên gấp ba lần, ôm vào Thủ đô một vùng nông thôn rộng lớn, càng làm cho bài toán thiết lập hệ thống dịch vụ đời sống thiết yếu trong khu vực cũ, mới, vùng ven và khu mở rộng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa sống còn cho Hà Nội.
Đầu tư các công trình DVCC đô thị cần chia làm 2 nhóm: Nhóm A – phục vụ đời sống thiết yếu cần trở thành chính sách bắt buộc các nhà đầu tư đô thị phải xây dựng vì dân để họ an cư tại chỗ. Dân mua nhà để ở phải có đủ dịch vụ thiết yếu. Nhóm B và C nhà nước có chính sách ưu đãi hỗ trợ ban đầu theo hướng xã hội hoá để khuyến khích đầu tư từ quy hoạch và xây dựng đô thị nhằm thoả mãn tối thiểu DVCC cho dân cư.
PGS.TS.KTS.Nguyễn Hồng Thục
Nguồn ảnh: Internet
Theo Tạp Chí Kiến Trúc Việt Nam